Lịch sử nước Phổ (1786 - 1850) Phổ_(quốc_gia)

Sau khi vua Friedrich II Đại Đế qua đời, Vương quốc Phổ trở nên suy yếu, do không có những vị vua tài ba. Với bộ máy Chính phủ Phổ do ông gầy dựng nên, nước Phổ cần phải có một ông vua kiệt xuất như ông, và do không có những ông vua kiệt xuất như vậy, nước Phổ suy yếu.[51] Do vua Friedrich II Đại Đế không có con, ông truyền ngôi cho người cháu gọi ông bằng bác là vua Friedrich Wilhelm II - một ông vua không sáng suốt và nhìn xa trông rộng như ông. Khác với bác của mình, Quốc vương Friedrich Wilhelm II đã thi hành chính sách phản động, phản cách mạng và bài bác Hội Tam Điểm.[186][187][188] Ông vua phản động này đã tiến hành chính sách kiểm duyệt và để đám sủng thần lũng đoạn triều chính.[189][190] Một thời kỳ lịch sử đã qua đi sau khi vua Friedrich II Đại Đế về cõi vĩnh hằng.[191] Với sự kiện ấy, trào lưu Khai sáng xuống dốc nghiêm trọng trên đất Đức sau năm 1786, và cuối cùng cũng tan biến vào thập niên 1790. Vua Friedrich Wilhelm II trọng dụng một viên cận thần cực kỳ bảo thủ là Johann Christoph Wöllner - vốn đã bị tiên vương Friedrich II Đại Đế chê trách.[192] Ông cũng sáp nhập thêm một phần Ba Lan qua các cuộc Phân chia của Ba Lan sau đó. Tuy mở rộng đáng kể bờ cõi nước Phổ, nhưng ông không có tài năng về chính trị và quân sự.[193]

Ông trở thành một vị vua mất lòng dân.[194] Người kế vị ông, vua Friedrich Wilhelm III (1797-1840) tuyên bố hợp nhất giáo hội Tin Lành dòng Luther Phổ và giáo hội Kháng Cách. Quốc vương Friedrich Wilhelm III không giỏi lắm, phải lệ thuộc vào các quan đại thần.[190] Nước Phổ đóng vai trò đóng vai trò chủ đạo trong Chiến tranh Cách mạng Pháp. Tuy nhiên sau Hòa ước Basel năm 1795, Phổ im hơi lặng tiếng trong hơn một thập kỉ, chỉ tham chiến một lần nữa với Pháp vào năm 1806 khi thương lượng với Pháp về vùng ảnh hưởng của Phổ ở Đức đổ vỡ. Trong lúc này, những chiến công hiển hách của Quốc vương Friedrich II Đại Đế năm xưa, vẫn còn được ghi nhớ trong lòng muôn dân Đức.[5] Trong trận Jena-Auerstedt, Quân đội Phổ bị quân Pháp của Napoléon Bonaparte đánh thất bại nặng nề, khiến cho vua Friedrich Wilhelm III (1797-1840) và Hoàng gia phải chạy sang Memel tạm thời lánh nạn. Tuy nền quân chủ Phổ đã gần như sụp đổ, họ vẫn chiến đấu với sự hỗ trợ của Đế quốc Nga. Một viên tướng tài năng là Gerhard von Scharnhorst cầm đầu đạo quân Phổ tại vùng Đông Phổ, với sự hỗ trợ của Quân đội Nga đông đảo hơn ông đã đánh Pháp trong trận Eylau bất phân thắng bại.[195] Tuy nhiên, quân Pháp đánh tan tác Quân đội Nga trong trận Friedland (1807), buộc Nga hoàng Aleksandr I phải làm hòa,[196] và liên minh Nga - Phổ yểu thọ chấm dứt.[197] Vào năm đó, Hoàng đế Napoléon Bonaparte đến kinh thành Berlin và ca ngợi vị tiên vương Friedrich II Đại Đế. Không những Napoléon mà danh tiếng lẫy lừng của vị vua nước Phổ này cũng làm nhiều người Pháp khác thán phục.[198]

Trong lịch sử nước Phổ, Pháo đài Kolberg nổi tiếng là đã hứng chịu đến năm cuộc vây hãm, nổi bật hơn cả là cuộc vây hãm của quân Pháp vào năm 1807.[199] Tướng August Neidhardt von Gneisenau chống trả quyết liệt, với sự hỗ trợ của nhân dân yêu nước ông đã giam chân được quân Pháp.[200] Cuộc chống trả của Gnesenau đã giành thắng lợi, do đó ông được ban Huy chương cao quý.[201] Sau chiến công anh hùng này, ông nhiệt liệt hoan nghênh việc cải cách Quân đội Phổ, và trở thành một trong những viên chỉ huy xuất sắc nhất của Quân đội Phổ.[202] Chiến công của Quân đội Phổ tại Kolberg đã được đưa lên màn ảnh nước Đức vào thời Đức Quốc xã sau này.[203]

Với thất bại của Quân đội Nga tại Friedland,[196] theo Hiệp ước Tilsit 1807, Vương quốc Phổ mất đi khoảng một nửa lãnh thổ, đặc biệt là các khu vực chiếm được từ các cuộc Phân chia Ba Lan thứ hai và thứ ba, các vùng này giờ thuộc về Đại công quốc Warsaw. Hơn thế nữa, vua Phổ buộc phải liên minh với Pháp và tham gia vào Hệ thống phong tỏa Lục địa. Đáp lại thất bại này, những Bộ trưởng chủ trương cải cách như SteinHardenberg tiến hành hiện đại hóa nước Phổ, bao gồm giải phóng nông dân khỏi chế độ nông nô, giải phóng và ban quyền công dân cho người Do Thái, thiết lập thể chế tự trị cho các đô thị. Hệ thống trường học được sắp xếp lại, và vào năm 1810 ban hành tự do thương mại. Quá trình cải cách quân đội hoàn thành vào năm 1813 với việc ban hành chế độ quân dịch.

Sau khi Napoléon thất bại ở Nga, nước Phổ rút khỏi liên minh với Pháp và tham gia vào Liên minh thứ 6 trong cuộc chiến tranh Giải phóng (Befreiungskriege) chống lại sự chiếm đóng của Pháp. Quân đội Phổ đóng vai trò quyết định trong chiến dịch năm 1813 giữa quân Pháp và Liên quân chống Phổ (Phổ, Áo, Nga, v.v...).[13] Vào năm 1813, dù quân Pháp chiến đấu dũng cảm, quân Pháp giành chiến thắng kiểu Pyrros trước Quân đội Phổ trong trận Bautzen, và Quân đội Phổ giành chiến thắng trong trận Leipzig cùng năm đó.[204][205] Vào năm 1814, Quân đội Phổ còn tiến đánh kinh thành Paris của Pháp, giành chiến thắng và vua Napoléon phải thoái vị.[206] Vị Hoàng đế này trở vệ từ nơi lưu đày không lâu sau đó, và Quân đội Phổ dưới sự chỉ huy của Thống chế Gebhard Leberecht von Blücher góp phần quyết định trong chiến thắng Waterloo năm 1815, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của Napoléon. Danh tiếng của nước Phổ lan truyền trên khắp cõi châu Âu. Tờ báo "Times" ở thủ đô Luân Đôn (Anh Quốc) có bình luận:[207]

Hầu như tất cả mọi chiến thắng quyết định sự sa ngã của nhà chinh phạt này (Napoléon) đều có nước Phổ tham gia. Quân đội Phổ luôn luôn tham chiến trong cả hai trận đánh tại Lutzen và Bautzen; Quân đội Phổ cũng luôn luôn tham chiến trong cả hai trận đánh tại Grossberen và Leipzig; Quân đội Phổ cũng luôn luôn tham chiến trong những trận đánh trên nước Pháp, và cuối cùng, Quân đội Phổ luôn luôn tham chiến trong trận đánh tại Waterloo. Người chiến binh Phổ đã thể hiện anh ta là người chiến binh xuất sắc nhất trong những chiến dịch này.
— Tờ báo Times

Chiến thắng trước Napoléon đã thể hiện chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Phổ, mang lại cho đất nước sự huy hoàng chẳng khác gì nhân dân Hy Lạp khi đập tan tác quân Ba Tư của Hoàng đế Xerxes I.[208] Thống chế Gebhard Leberecht von Blücher vốn là một chiến binh Thụy Điển trong Chiến tranh Bảy năm, bị Quân đội Phổ bắt sống và gia nhập trong lực lượng Kỵ binh nhẹ xuất sắc của vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế và phò tá đắc lực trong những năm tháng huy hoàng của vị vua này.[206] Ông từng là một trong những viên Sĩ quan xuất sắc nhất của nước Phổ.[209] Chiến thắng tại Waterloo trở thành một những trận thắng lẫy lừng trong lịch sử Quân đội Phổ, cùng với những trận chiến tại Rossbach, Leuthen hay Leipzig.[210] Tại Hội nghị Viên 1815, để thưởng công cho Phổ, Phổ được thu lại các lãnh thổ đã mất, cũng như được thêm toàn bộ vùng Rhineland, Westphalia và một số vùng đất khác. Những vùng đất phía tây có tính chất sống còn với Phổ, bởi vì chúng bao gồm vùng Ruhr, trung tâm công nghiệp non trẻ của Đức, đặc biệt là công nghiệp quân sự. Những vùng đất mới được sáp nhập này làm tăng gấp đôi dân số Phổ. Để đổi lại, Phổ rút khỏi khu vực trung tâm Ba Lan để thành lập Liên hiệp Ba Lan (Congress Poland) dưới quyền cai quản của Nga. Phổ nổi lên từ sau cuộc Chiến tranh Napoléon như là bá chủ của Đức, làm lu mờ đối thủ lâu đời là Áo, nước đã chịu mất địa vị Hoàng đế Đức năm 1806. Kể từ năm 1815, Phổ trở thành một thành viên của Liên minh các quốc gia Đức.

Tập tin:MapGermany1815.gifNước Đức sau Công ước Viên 1815Vua Friedrich Wilhelm IV

Nửa đầu của thế kỉ thứ 19 chứng kiến cuộc đấu tranh dai dẳng trong nước Đức giữa những người theo chủ nghĩa tự do muốn một có liên bang Đức thống nhất dưới một hiến pháp dân chủ, và những người theo chủ nghĩa bảo thủ, muốn duy trì nước Đức như là một tập hợp chắp vá bởi các tiểu quốc quân chủ độc lập, với Phổ và Áo tranh giành ảnh hưởng. Do Phổ có ưu thế về lãnh thổ và dân số nên các tiểu quốc Đức bắt đầu gia nhập vùng tự do kinh tế do Phổ lập ra vào năm 1820. Phổ được hưởng rất nhiều lợi ích từ việc lập ra Liên hiệp Thuế quan Đức (Zollverein), bao gồm hầu hết các tiểu quốc Đức, ngoại trừ Áo. Quốc vương Friedrich Wilhelm III từng hứa hẹn sẽ ban hành Hiến pháp, nhưng đến khi ông qua đời vào năm 1840 thì lời hứa này vẫn không được thực hiện. Những người có tư tưởng tiến bộ và chủ nghĩa tự do trên khắp Vương quốc sẽ còn gửi gắm hy vọng vào tân vương Friedrich Wilhelm IV.[211] Quốc vương Friedrich Wilhelm IV lên ngôi vua lúc đã 45 tuổi. Ông là một người khó hiểu, kể cả đối với những người đương thời rất am hiểu về ông. Khác với các bậc tiên vương Friedrich II Đại Đế, Friedrich Wilhelm II và Friedrich Wilhelm III đều được nuôi dạy dưới tinh thần và những giá trị của trào lưu Khai sáng. Ngược lại, vua Friedrich Wilhelm IV được dạy dỗ bởi các danh sĩ của chủ nghĩa lãng mạn.[212]

Ông trở thành một vị vua lãng mạn bảo thủ, ông tin vào thần quyền của Nhà vua.[213] Ông thi hành chính sách phản động, chống cải cách.[214] Ông là một trong những người đã tạo ra một tinh thần bảo thủ ở châu Âu từ sau làn sóng Cách mạng năm 1848 cho đến khi chế quân chủ Đức sụp đổ vào năm 1918. Vào năm 1848 những người theo chủ nghĩa tự do có một cơ hội khi các cuộc cách mạng bùng nổ khắp châu Âu. Vua Friedrich Wilhelm IV đã đồng ý triệu tập Quốc hội và thông qua một bản Hiến pháp. Khi Quốc hội Frankfurt phong Friedrich Wilhelm IV làm hoàng đế của một nước Đức thống nhất, ông từ chối với lý do ông không thể nhận vương miện từ Quốc hội lập ra từ cách mạng mà không được sự ủng hộ của các hoàng gia Đức khác.

Quốc hội Frankfurt bị buộc phải giải tán vào năm 1849, và vua Friedrich Wilhelm IV sử dụng quyền lực của mình để ban hành hiến pháp đầu tiên của Phổ vào năm 1849. Bản Hiến pháp bảo thủ này cho phép lập ra hai Nghị viện. Hạ nghị viện, hay Landtag, được bầu ra bởi tất cả những công dân có khả năng đóng thuế. Những người này được chia làm 3 giai cấp, và trọng lượng lá phiếu phụ thuộc vào số tiền họ đóng thuế. Phụ nữ và những người không có khả năng đóng thuế không có quyền bầu cử. Quy định này khiến cho một phần ba số cử tri có thể chọn ra đến 85% số nghị viên, về thực chất là đảm bảo sự thống trị của những người giàu có trong xã hội. Thượng viện, sau được đổi tên là Herrenhaus (tức "Viện Nguyên Lão"), được chỉ định bởi nhà vua. Nhà vua có toàn quyền hành pháp, và các bộ trưởng chỉ phải chịu dưới quyền nhà vua. Kết quả là sự thống trị của giai cấp lãnh chúa, được gọi là Junker, được bảo đảm nguyên vẹn, nhất là ở các tỉnh miền đông.

Bên cạnh những chính sách bảo thủ, Quốc vương Friedrich Wilhelm IV cũng có chút ít đóng góp đối với nền văn hóa phương Tây, ông tích cực khuyến khích khoa học phát triển ở các Trường Đại học.[214] Nhà vua cũng hạ lệnh cho xuất bản một loạt tác phẩm của tiên vương Friedrich II Đại Đế, từ năm 1846 cho đến năm 1857. Trong thời kỳ này, một họa sĩ tỉnh Silesia là Adolf Menzel có vẽ một loạt bức tranh về vua Friedrich II Đại Đế, ví dụ như "Vua Friedrich Đại Đế trong những chuyến thị sát" (1854). Ông trở thành một trong những họa sĩ vĩ đại nhất của người Đức, ảnh hưởng đến nhiều họa sĩ đương thời. Quốc vương Friedrich II Đại Đế và chủ nghĩa anh hùng của ông ảnh hưởng vô cùng lớn đến nước Đức thời đó.[182]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phổ_(quốc_gia) http://www.amazon.com/History-Modern-Germany-Hajo-... http://www.amazon.com/Medieval-Germany-Encyclopedi... http://www.amazon.com/Rise-Brandenburg-Prussia-Lan... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/218058/F... http://books.google.com/?id=qsBco40rMPcC http://books.google.com/books?id=-1IEAAAAMBAJ&lpg=... http://www.heritage-history.com/www/heritage.php?D... http://www.heritage-history.com/www/heritage.php?D... http://www.heritage-history.com/www/heritage.php?D... http://bpkgate.picturemaxx.com/index.php?language=...